Những gì luật pháp không cấm, người dân được tự do kinh doanh

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh.

Thưa Bộ trưởng, tuần qua Quốc hội đã thông qua 2 luật là Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) và Luật Đầu tư (sửa đổi). Tâm trạng của Bộ trưởng tại thời điểm này như thế nào?

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Trước hết là tôi rất vui vì đất nước đã có được 2 luật rất căn bản cho lĩnh vực đầu tư và doanh nghiệp. Đây là 2 luật mang tính cơ bản tạo điều kiện cải thiện môi trường đầu tư của đất nước.

Bộ trưởng có thể cho biết thay đổi căn bản nhất trong lần sửa đổi 2 luật này?

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Lần sửa đổi này có thể nói là gần như đã “lột xác” nhằm khắc phục những khiếm khuyết của hơn một chục năm qua chúng ta triển khai thực hiện Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp.

Nội dung cơ bản nhất được thay đổi trong Luật Đầu tư phương pháp tiếp cận. Phương pháp tiếp cận trước đây là “chọn- cho”, có nghĩa là trong luật quy định những lĩnh vực được phép đầu tư kinh doanh. Lần này, chúng ta thay bằng phương pháp minh bạch hơn và rõ ràng hơn là “chọn – bỏ”.

“Chọn – bỏ” là phương pháp khó mà trên thế giới không phải nước nào cũng dám áp dụng. Nhưng ở nước ta, Quốc hội đã quyết định áp dụng phương pháp này. Đó là cái gì cấm, cái gì hạn chế thì ghi vào trong luật. Điều này cũng thể hiện đúng tinh thần Hiến pháp 2013 về quyền tự do kinh doanh của công dân, của doanh nghiệp. Những gì luật pháp không cấm thì người dân, doanh nghiệp được tự do đầu tư, kinh doanh.

Vấn đề thứ 2 là tất cả các doanh nghiệp Việt Nam không cần được cấp giấy chứng nhận đầu tư. Họ được quyền tự do kinh doanh theo những lĩnh vực mà luật pháp đã quy định, cho phép.

Nếu kinh doanh ở những lĩnh vực có điều kiện thì họ cần phải đáp ứng những điều kiện đó. Các cơ quan quản lý Nhà nước sau đó sẽ kiểm tra. Nếu thấy chưa đúng thì yêu cầu chỉnh sửa, nếu mức độ vi phạm là quá lớn thì có thể dừng.

Việc chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” cũng là điểm rất thông thoáng, minh bạch và giảm bớt chi phí cho người dân. Riêng các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam (FDI) thì cần phải có việc cấp giấy chứng nhận đầu tư trong lần đầu tiên.

Thưa Bộ trưởng, các doanh nghiệp rất là đồng tình là bây giờ chỉ có 6 ngành nghề bị cấm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng còn băn khoăn khi số lượng ngành nghề kinh doanh có điều kiện vẫn còn nhiều như vậy (267 ngành)?

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Số lượng lĩnh vực kinh doanh có điều kiện là nhiều hay ít không phải là vấn đề. Ở đây có một sự sai lệch về nhận thức.

Đối với những đất nước càng phát triển thì càng có nhiều điều kiện trong các lĩnh vực kinh doanh. Điều đó để đảm bảo rằng, ngành nghề kinh doanh phải phục vụ lợi ích phát triển con người, như các vấn đề sức khỏe, an ninh và môi trường.

Cần phải hiểu những điều kiện kinh doanh này là những điều làm cho các ngành nghề kinh doanh đó tốt lên, phục vụ tốt hơn cho con người.

Trong 267 lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, Chính phủ sẽ quy định những loại ngành nghề nào phải được cấp phép. Tuy vậy, việc cấp phép sẽ được hạn chế ở mức tối thiểu. Còn lại, sẽ có những ngành nghề nào mà người ta không cần xin phép ai cả hoặc các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ sẽ đi kiểm tra, giám sát.

Thí dụ, ở các nước có trình độ phát triển tương đồng như Việt Nam và ở chính Việt Nam, những ngành nghề như mở hàng ăn, hàng phở không có một quy định nào cả. Coi như người dân tự do, thoải mái trong việc mở cửa hàng.

Nhưng ở những nước phát triển, điều kiện để mở cửa hàng ăn phục vụ công cộng thì người chủ và những người phục vụ phải không mắc bệnh truyền nhiễm. Hơn nữa, nguyên liệu để chế biến phải không có hóa chất độc hại ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Cơ quan quản lý công bố điều kiện đó. Anh mở cửa hàng mà không thực hiện thì sẽ bị thu hồi giấy phép.

Ta cần cố gắng để hạn chế việc xin cấp phép, nhưng cũng để có nhiều điều kiện kinh doanh chặt chẽ hơn, tốt hơn nhằm phục vụ lợi ích của con người. Đó không phải là rào cản, là gây khó khăn cho doanh nghiệp.

Luật Doanh nghiệp mới cho phép doanh nghiệp chủ động về con dấu. Có thể hiểu là doanh nghiệp không cần dùng tới con dấu nữa không, thưa Bộ trưởng?

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Trên thế giới, người ta bỏ con dấu gần hết rồi. Bây giờ ở các nước điều quan trọng là chữ ký, bởi chữ ký của người có thẩm quyền mới là quyết định. Tuy nhiên, tại Việt Nam và một số ít nước bây giờ vẫn có quy định rất chặt chẽ về con dấu. Thậm chí, người ta không quan tâm tới chữ ký nhiều mà chỉ nhìn con dấu mà cho đó là tính pháp lý. Đây là điều cần phải thay đổi.

Ngoài ra, thủ tục xin cấp con dấu, khắc dấu cũng tiêu tốn nhiều chi phí, thời gian của doanh nghiệp và con dấu cũng gây ra nhiều phiền toái khác.

Chúng ta mong muốn sửa đổi theo hướng là bỏ con dấu đó đi. Tuy nhiên, trong điều kiện thực tế của Việt Nam thì ngay lập tức chưa thể bỏ được vì trình độ quản lý còn hạn chế và nhiều vấn đề liên quan khác.

Trong luật lần này, doanh nghiệp sẽ được quyết định nội dung cũng như là hình thức con dấu. Họ được tự chủ trong việc quyết định và tự chịu trách nhiệm với con dấu của mình. Hơn nữa, chúng ta vẫn tiếp tục thúc đẩy mạnh việc sử dụng chữ ký sẽ mang tính pháp lý, nhất là chữ ký điện tử. Như vậy, từng bước tiến tới có thể loại bỏ con dấu.

Thưa Bộ trưởng, có doanh nghiệp băn khoăn là nhỡ con dấu của đối tác sai hoặc không hợp pháp thì sao?

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Khi ký kết hợp đồng với đối tác, doanh nghiệp phải tìm hiểu về tính pháp lý của đối tác và những quy định về con dấu của họ đã đăng ký. Doanh nghiệp phải tìm hiểu về vấn đề này tại các cơ quan quản lý hay qua những công bố trên mạng internet. Trách nhiệm của doanh nghiệp là phải tìm hiểu, kiểm tra trước khi ký kết.

Thưa Bộ trưởng, có doanh nghiệp lo ngại là việc thông thoáng, đơn giản hóa thủ tục có thể làm phát sinh các hệ lụy như doanh nghiệp bỏ trốn, thành lập doanh nghiệp “ma” để mua bán hóa đơn. Bộ truởng có lo ngại về vấn đề này hay không?

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Xã hội nào, dù chặt chẽ đến đâu cũng luôn có những hành động lợi dụng kẽ hở của pháp luật để kinh doanh trái phép, vi phạm luật pháp. Về việc này, các cơ quan có trách nhiệm phải kiểm tra và xử lý vi phạm.

Trong nguyên tắc làm luật, điều gì gì có lợi ích nhất cho đại chúng thì chúng ta phải áp dụng. Không thể lấy vi phạm của một vài cá nhân, một vài tập thể nhỏ để mà bắt tất cả phải đi theo, phải bị quản lý chặt lại. Cho nên, chúng ta sẽ có biện pháp, chế tài để kiểm soát và xử lý số ít vi phạm nhưng vẫn phải tạo ra sự thông thoáng vì lợi ích chung cho toàn xã hội.

Thưa Bộ trưởng, nhiều doanh nghiệp rất vui mừng khi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư gỡ bỏ nhiều cái rào cản về thủ tục cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, còn rất nhiều luật chuyên ngành khác mà doanh nghiệp vẫn còn băn khoăn, ví dụ như về vấn đề đất đai thì có Luật Đất đai, về cấp phép xây dựng thì có Luật Xây dựng… Vậy vai trò của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư là như thế nào so với các luật chuyên ngành khác?

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp là những luật mang tính cơ bản, quy định chung nhất cho lĩnh vực đầu tư, kinh doanh; quy định những nguyên tắc chung nhất cho thành lập và quản trị doanh nghiệp.

Những luật này áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp thành lập, trừ một vài doanh nghiệp trong những lĩnh vực đặc thù, như lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán…

Như vậy, tuyệt đại đa số phải chấp hành theo Luật Doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải tuân theo khi thành lập cũng như quản trị hoạt động.

Nhưng đúng là 2 luật này không thể chế tài hết tất cả mọi lĩnh vực. Doanh nghiệp vẫn cần phải chấp hành theo các luật chuyên ngành như về đất đai, về xây dựng… Tuy nhiên, 2 luật này (là những luật cơ bản) đã đổi mới được thì tôi tin rằng Quốc hội và Chính phủ cũng sẽ xem xét sửa đổi những luật chuyên ngành nói trên cho phù hợp dưới sức ép của nhân dân, của doanh nghiệp.

Liệu chúng ta có thể kỳ vọng là sẽ có một làn sóng thành lập doanh nghiệp mới sau khi 2 luật này chính thức có hiệu lực không?

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Quốc hội, Chính phủ và những người soạn thảo mong muốn sửa đổi 2 luật này thông thoáng và tiếp cận đến cái chung của thế giới đến mức độ như vậy.

Để chúng ta tạo ra một động lực mới cho người dân và doanh nghiệp mà trong đó cũng có kỳ vọng một làn sóng thành lập doanh nghiệp mới.

Bởi vì khi đó việc thành lập doanh nghiệp sẽ tốn ít chi phí hơn, minh bạch, tiết kiệm thời gian hơn và người dân không bị bỏ lỡ thời cơ. Điều đó khuyến khích người dân thay vì đem tiền nhàn rỗi gửi ngân hàng, mua vàng, mua USD cất trữ… sẽ đem những đồng tiền đó đầu tư kinh doanh. Không những đem lại cho bản thân mình lợi nhuận cao hơn mà còn tạo ra hàng triệu triệu việc làm cho đất nước và tạo ra các giá trị quan trọng khác cho đất nước.

Xin cảm ơn Bộ trưởng!

(Chính phủ)

Trả lời

0913.756.339